Cáo là một thành viên phổ biến trong họ canid, xuất hiện ở mọi châu lục ngoại trừ Nam Cực. Có 12 loài và 47 phân loài được công nhận trong danh mục “cáo thật” đơn ngành của chi âm hộ, loài quen thuộc và phổ biến nhất là cáo đỏ. Tuy nhiên, không phải tất cả chúng đều có màu đỏ; chúng cũng có thể có màu bạc, trắng, đen hoặc nâu. Một số phát triển mạnh ở sa mạc, trong khi những loài khác thích môi trường núi cao.
Với rất nhiều loại ở nhiều nơi, không có gì ngạc nhiên khi các thành viên của chi đã có nhiều cách thích nghi, dẫn đến một loạt các đặc điểm ranh mãnh.
Dưới đây là tám loài cáo hấp dẫn có thể trông không giống loài cáo thông thường trong truyện của bạn.
Cáo tai dơi
Cáo tai dơi (Bệnh megalotis Otocyon) lấy tên từ đôi tai cực lớn, dùng để xác định vị trí côn trùng và các con mồi khác. Chế độ ăn của nó bao gồm mối mọt (và các loài mối khác), kiến, bọ cánh cứng, châu chấu, nhện và các động vật không xương sống khác. Những loài côn trùng này không chỉ đóng vai trò là thức ăn mà còn cung cấp phần lớn lượng nước cho loài động vật sa mạc này, vì có rất ít nước quý giá được tìm thấy ở những đồng cỏ khô và xavan khô cằn ở Châu Phi, nơi nó sinh sống. Ngoài đôi tai lớn, loài này còn có nhiều răng hơn bất kỳ loài cáo hoặc động vật có vú có nhau thai nào khác.
Cáo cát Tây Tạng
Cáo cát Tây Tạng (Vulpes ferrilata) có thể có đôi tai có kích thước bình thường nhưng dường như nó có cái đầu rộng bất thường. Điều này chủ yếu là do mõm của nó đặc biệt hẹp và có khá nhiều lông dày bao quanh mặt. Cơ thể của nó nhỏ gọn và đôi chân khá ngắn, điều này hoàn toàn mang lại cho con vật vẻ ngoài giống như phim hoạt hình. Loài cáo này được tìm thấy ở độ cao lớn ở Cao nguyên Tây Tạng, Nepal, Sikkim và Cao nguyên Ladakh, đôi khi ở độ cao trên 17.000 feet. Nó săn pikas và các loài gặm nhấm khác, thỏ rừng và đôi khi là thằn lằn.
Mũi Cáo
Cáo mũi (Vulpes chama) có thể được tìm thấy ở các khu vực phía nam châu Phi, bao gồm Nam Phi, Zimbabwe, Botswana và vùng sa mạc Kalahari. Môi trường sống ưa thích của nó trải dài từ vùng đồng cỏ rộng mở đến vùng bụi rậm bán sa mạc. Nó tìm nơi trú ẩn khỏi cái nóng bằng cách nghỉ ngơi trong hang vào ban ngày và hoạt động vào những giờ đêm mát mẻ, mặc dù nó cũng có thể được phát hiện vào những giờ vàng lúc bình minh và hoàng hôn. Giống như nhiều loài chó khác, cáo Cape giao phối suốt đời và có thể sinh con vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, những con trưởng thành có xu hướng kiếm ăn một mình, điều đó có nghĩa là chúng thường không được phát hiện theo cặp.
Cáo ăn cua
Cáo ăn cua (Cerdocyon nghìn), còn được gọi là cáo rừng và cáo gỗ, có nguồn gốc từ Nam Mỹ và có thể phát triển mạnh ở thảo nguyên, rừng cây, rừng cận nhiệt đới hoặc rừng ven sông. Loài này được đặt tên theo sự lựa chọn con mồi của nó. Nó ăn chế độ ăn tổng quát gồm cua (tìm thấy ở vùng ngập bùn trong mùa mưa), động vật giáp xác, côn trùng, động vật gặm nhấm và chim. Có vẻ như nó dễ dàng được thuần hóa và đôi khi được nuôi như thú cưng.
Cáo Fennec
Cáo fennec (Vulpes zerda) là một cư dân sa mạc có thể sống sót với rất ít nước. Nó sống về đêm, ở trong hang mát mẻ vào ban ngày nắng nóng và săn mồi vào ban đêm. Đôi tai to rõ rệt của nó giúp nó xác định vị trí con mồi, chẳng hạn như loài bò sát, trứng và côn trùng, đồng thời tản nhiệt. Cáo fennec có khả năng sống sót trong thời gian dài mà không cần nước.
Cáo fennec là loài chó nhỏ nhất trên thế giới, nặng trung bình 3,5 pound và thường dài khoảng 12 inch. Chỉ riêng đôi tai của nó đã có thể cao từ 3 đến 6 inch. Những sinh vật đáng chú ý này đã được biết đến với khả năng nhảy cao hai feet lên không trung từ tư thế đứng.
Cáo Corsac
Cáo Corsac (Vulpes corsac) có bộ lông cực kỳ mềm mại vào mùa đông, đó là lý do tại sao quần thể chúng thường xuyên bị đe dọa bởi những kẻ săn trộm. Nó sống ở thảo nguyên và bán sa mạc ở Trung và Đông Bắc Á, và đôi khi có thể giảm tới 90% số lượng – do thiên tai, thời tiết xấu như mùa đông lạnh giá với lượng tuyết rơi nhiều, săn trộm, phát triển, v.v. ra. Nhưng loài này có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đó là lý do tại sao cáo Corsac vẫn được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế coi là loài ít được quan tâm nhất. Chúng chủ yếu sống về đêm, ban ngày sống trong hang. Một con cáo có thể có nhiều hang hoạt động trong lãnh thổ của nó.
Cáo bạc
vườn thú / Flickr / CC BY 2.0
Cáo bạc thực ra là một biến thể màu sắc của cáo đỏ (Vulpes Vulpes). Những con cáo này được sinh ra với lượng melanin dư thừa, khiến bộ lông của chúng sẫm màu hơn, với những đầu lông màu bạc xen kẽ tạo nên vẻ lung linh độc đáo. Chúng có thể có nhiều màu sắc khác nhau, từ toàn màu đen chỉ có phần đuôi có chấm trắng đặc trưng đến màu xanh lam hoặc xám tro. Dù là sắc thái nào, biến thể màu này đều được giới buôn bán lông thú đánh giá cao. Chính vì điều này mà loài cáo bạc đã được nuôi nhốt đến mức được thuần hóa. Ngày nay, các biến thể bạc tự nhiên rất hiếm xảy ra trong tự nhiên.
Đôi mắt của chúng có ánh sáng vàng vàng khi chúng trưởng thành. Chúng là loài động vật sống đơn độc, bán lãnh thổ và không giống như những họ hàng thuộc họ canid khác như chó và chó sói, chúng không thể sủa hoặc hú. Thay vào đó, họ yip hoặc “gekker”, một loại âm thanh cười khúc khích được tạo ra trong khi chơi hoặc khi bảo vệ phạm vi của họ.
Cáo Bắc Cực
Còn được gọi là cáo Bắc Cực, cáo trắng hay cáo tuyết, cáo Bắc Cực (Vulpes lagopus) gọi quần xã vùng lãnh nguyên Bắc Cực là nhà, tức là các khu vực phía bắc Canada, Nga, Châu Âu, Greenland và Iceland. Không giống như những người anh em sống ở sa mạc thích nghi với nhiệt độ cực cao, loài canid hùng vĩ này được trang bị cho cái lạnh buốt giá. Nó có bộ lông ấm nhất so với bất kỳ loài động vật nào được tìm thấy ở Bắc Cực, có thể sống sót ở nhiệt độ lên tới khoảng 76 độ dưới 0 độ F (-60 độ C). Bộ lông trắng đó cũng giúp nó hòa mình vào tuyết và chiếc đuôi của nó có thể dùng như một tấm chăn để giữ cho nó dễ chịu hơn khi ở trong hang.