Hải ly không chỉ bận rộn—chúng ngập nước. Tuy nhiên, mặc dù việc xây dựng và duy trì đầm lầy có thể mất thời gian nhưng rõ ràng việc đầu tư này rất đáng giá. Những ngôi nhà định hình hệ sinh thái của loài gặm nhấm từ lâu đã nổi tiếng về độ bền và các nhà nghiên cứu đưa ra bằng chứng độc đáo cho thấy các đập hải ly riêng lẻ có thể tồn tại trong nhiều thế kỷ.
Bằng chứng đó xuất hiện qua bản đồ năm 1868 (xem bên dưới) do Lewis H. Morgan, một nhà nhân chủng học nổi tiếng người Mỹ, người cũng từng là giám đốc đường sắt, ủy quyền. Trong khi giám sát một dự án đường sắt xuyên qua Bán đảo Thượng Michigan vào những năm 1860, Morgan đã tình cờ gặp một điều khiến ông ngạc nhiên: “một quận hải ly, có lẽ đáng chú ý hơn bất kỳ quận nào có quy mô tương đương được tìm thấy ở bất kỳ khu vực nào ở Bắc Mỹ.”
Morgan tiếp tục nghiên cứu những con hải ly này trong nhiều năm và cho ra đời cuốn sách dài 396 trang “The American Beaver and His Works” (và vâng, những con hải ly cái sẽ thích một từ ở đây). Được xuất bản vào năm 1868, nó bao gồm một bản đồ gồm 64 đập và ao hải ly trải rộng trên diện tích khoảng 125 km2 (48 dặm vuông) gần thành phố Ishpeming, Michigan. Đáng chú ý, nhìn vào bản đồ của Morgan năm 2018 cho thấy hầu hết các đập hải ly vẫn còn đó.
Kiểm tra, hơn 150 năm sau
Tác giả nghiên cứu và nhà sinh thái học bang Nam Dakota Carol Johnston nói với David Malakoff của Tạp chí Khoa học: “Chúng tôi chưa biết nhiều về khả năng phục hồi lâu dài của quần thể hải ly, nhưng bản đồ này cho phép chúng tôi nhìn ngược thời gian theo một cách khá độc đáo”.
Khi Johnston lần đầu tiên biết đến bản đồ của Morgan trong thời gian làm nghiên cứu sau tiến sĩ, cô nhận thấy niên đại và chi tiết của nó nổi bật so với hầu hết dữ liệu về đập hải ly. Tò mò về tình hình hoạt động của các con đập trong hơn một thế kỷ rưỡi qua, cô quyết định tự mình đi xem.
Sử dụng hình ảnh trên không, Johnston đã ghép lại một bản cập nhật hiện đại cho bản đồ của Morgan. Cô nhận ra 46 trong số 64 đập và ao vẫn còn đó, tương đương khoảng 72%. Một số con đập dường như đã bị bỏ hoang, và mặc dù mỗi con đập có thể không liên tục nuôi hải ly kể từ năm 1868, nhưng Johnston vẫn rất ấn tượng.
Bà viết trên tạp chí Wetlands: “Sự nhất quán đáng chú ý trong việc bố trí ao hải ly trong 150 năm qua là bằng chứng về khả năng phục hồi của hải ly”.
Nghiên cứu khác đã gợi ý về khả năng phục hồi lâu hơn. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2012 cho thấy một số đập hải ly ở California có niên đại hơn 1.000 năm. Một trong những con đập đó được xây dựng lần đầu tiên vào khoảng năm 580 sau Công nguyên, lâu đời hơn cả thời nhà Đường của Trung Quốc hay thơ ca Anh được biết đến sớm nhất. Bằng chứng sau đó cho thấy con đập tương tự đã được sử dụng vào khoảng năm 1730, khi hải ly dường như đã sửa chữa nó. Cuối cùng nó đã bị bỏ hoang sau khi bị thủng vào năm 1850 – khoảng 1.200 năm sau khi được xây dựng lần đầu.
Lịch sử hỗn loạn của hải ly
Tuy nhiên, bất chấp khả năng phục hồi của chúng, cả hai loài hải ly trên Trái đất—Bắc Mỹ (thầu dầu canadensis) và Á-Âu (Sợi thầu dầu)—đã bị xóa sổ bởi những người đánh bẫy con người từ những năm 1600 đến 1800. Hải ly đã xây dựng hệ sinh thái ở Bắc Mỹ trong khoảng 7 triệu năm qua và thậm chí còn lâu hơn ở Á-Âu, nhưng nhu cầu về lông của chúng đã đẩy chúng đến bờ vực tuyệt chủng chỉ sau vài thế kỷ.
Các biện pháp bảo vệ pháp lý cuối cùng đã giúp hải ly quay trở lại thế kỷ trước và giờ đây chúng lại xuất hiện nhiều ở Bắc Mỹ (mặc dù chỉ có khoảng 10% dân số lịch sử của chúng). Sợi thầu dầu đã quay trở lại tương tự, nhiều hơn ở châu Âu so với châu Á và cả hai loài hiện được liệt kê là “Ít quan tâm” trong Sách đỏ IUCN tính đến năm 2023.
Không rõ chính xác hải ly của Morgan sẽ hoạt động như thế nào khi có nhiều người chuyển đến, nhưng nghiên cứu mới cho thấy chúng không bị tổn thương. Mặc dù hầu hết các con đập vẫn còn tồn tại, nhưng 18 con đập không còn ở những nơi mà con người đã thay đổi hoàn toàn cảnh quan kể từ năm 1868 – có lẽ là quá nhiều để hải ly có thể thay đổi lại. Johnston viết: “Những thay đổi trong việc sử dụng đất làm thay đổi địa hình (khai thác mỏ, phát triển khu dân cư) hoặc đường dẫn suối (kênh kênh) là nguyên nhân chính gây mất ao hải ly”.
Học một bài học từ loài gặm nhấm
Tuy nhiên, điều đáng khích lệ là rất nhiều ngôi nhà của hải ly vẫn tồn tại qua thế kỷ 19 và 20, thời điểm đặc biệt hỗn loạn đối với động vật hoang dã trên khắp Bắc Mỹ. Bất kỳ sự tuyệt chủng nào được ngăn chặn đều là tin tốt, nhưng hải ly là loài chủ chốt mà vùng đất ngập nước DIY giúp tăng cường tất cả các loại đa dạng sinh học, vì vậy sự trở lại của chúng đặc biệt được chào đón.
Hải ly chỉ sống được từ 10 đến 20 năm và vì chúng thường làm cha mẹ khi được 3 tuổi nên hàng chục thế hệ có thể đã sinh sống trong ao của Morgan kể từ khi ông lập bản đồ chúng. Con đập California nói trên thậm chí có thể kéo dài tới 400 thế hệ, bằng con số mà con người đã trải qua kể từ khi tổ tiên chúng ta bắt đầu làm nông nghiệp. Tuy nhiên, bất chấp tất cả thành công của loài người, chúng ta vẫn có khả năng phá hủy hệ sinh thái trong quá trình này. Mặt khác, hải ly sử dụng tài nguyên địa phương để làm giàu cho mình Và môi trường sống của chúng.
Điều đó không có nghĩa là hải ly có tất cả các câu trả lời. Nhưng loài gặm nhấm cần cù là một lời nhắc nhở hữu ích rằng tất cả chúng ta đều được xác định bởi những gì chúng ta để lại cho con cháu, cho dù đó là bầu không khí không bị ô nhiễm, đầm lầy đa dạng sinh học hay chỉ là một nơi sinh sống “đập đập”.