Trong cơn đói khát tài nguyên thiên nhiên ngày càng khốc liệt của chúng ta, dường như không có địa điểm nào quá xa xôi hoặc quý giá để khai thác. Với sự gia tăng nhu cầu về các kim loại như coban và niken, môi trường sống dưới biển sâu giàu khoáng chất là những ngọn đồi đào vàng mới ở California. Người ta có thể nghĩ và hy vọng rằng các hệ sinh thái đáy biển sâu 4.000 đến 6.000 mét, ở một nơi hoang vu, sẽ an toàn trước ngành công nghiệp tò mò vì lợi ích khai thác mỏ, nhưng than ôi, không.
Ở trung tâm và phía đông Thái Bình Dương, có một khu vực rộng lớn, giàu khoáng sản với diện tích khoảng 2,3 triệu dặm vuông – gấp đôi diện tích Ấn Độ – được gọi là Vùng Clarion-Clipperton (CCZ).
Trải dài từ Hawaii đến Mexico, CCZ là một trong những vùng hoang dã nguyên sơ nhất trên đại dương toàn cầu. Và nó đã được chia ra để khai thác biển sâu trong tương lai. Hiện nay trên địa bàn có 17 hợp đồng thăm dò khoáng sản.
Cho đến nay, vẫn chưa có danh sách đầy đủ về phạm vi rộng của các sinh vật coi đây là điểm nóng khai thác trong tương lai. Nhưng với việc công bố một nghiên cứu mới phác thảo 5.578 loài khác nhau được tìm thấy trong khu vực, giờ đây chúng ta đã có hiểu biết cơ bản về đa dạng sinh học của khu vực. Ước tính có khoảng 88% đến 92% những loài đó là hoàn toàn mới đối với khoa học.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí giải thích: “Kiến thức cơ bản về đa dạng sinh học của khu vực là rất quan trọng để quản lý hiệu quả tác động môi trường từ các hoạt động khai thác biển sâu tiềm năng, nhưng cho đến gần đây, điều này gần như hoàn toàn thiếu”. Sinh học hiện tại.
Muriel Rabone, nhà sinh thái học biển sâu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn, Vương quốc Anh, đồng thời là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết: “Chúng ta chia sẻ hành tinh này với tất cả sự đa dạng sinh học tuyệt vời này và chúng ta có trách nhiệm hiểu và bảo vệ nó”.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu hơn 100.000 hồ sơ về các sinh vật được tìm thấy trong CCZ được thu thập trong các chuyến thám hiểm biển sâu. Trong số hơn 5.000 loài họ liệt kê, chỉ có sáu loài mới được tìm thấy ở CCZ đã được nhìn thấy ở các khu vực khác. Các loại sinh vật phổ biến nhất trong CCZ là động vật chân đốt, giun, động vật da gai (động vật không xương sống có gai như nhím biển) và bọt biển.
Và như các tác giả lưu ý, những ước tính này chưa hoàn chỉnh; “một số khu vực và môi trường sống của CCZ hầu như chưa được lấy mẫu.”
Dưới đó là cả một thế giới kỳ diệu, bí ẩn, không bị ảnh hưởng bởi các ngành công nghiệp ít quan tâm đến thiên nhiên.
“Có một số loài đáng chú ý ở dưới đó. Một số miếng bọt biển trông giống như bọt biển tắm cổ điển và một số trông giống như chiếc bình hoa. Chúng thật đẹp,” Rabone nói về các mẫu CCZ. “Một trong những món ưa thích của tôi là bọt biển thủy tinh. Chúng có những chiếc gai nhỏ này và dưới kính hiển vi, chúng trông giống như những chiếc đèn chùm nhỏ hoặc những tác phẩm điêu khắc nhỏ.”
Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của những nỗ lực nghiên cứu gắn kết, hợp tác và đa ngành hơn trong CCZ để có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về đa dạng sinh học của khu vực, lưu ý tầm quan trọng của “tính mới của khu vực ở cấp độ phân loại sâu”.
Các tác giả viết trong kết luận của nghiên cứu: “Điều này đặc biệt quan trọng vì CCZ vẫn là một trong số ít khu vực còn lại của đại dương toàn cầu có mức độ hoang dã cao”. “Dữ liệu chắc chắn và sự hiểu biết là cần thiết để làm sáng tỏ khu vực độc đáo này và đảm bảo sự bảo vệ nó trong tương lai khỏi tác động của con người.”
“Có rất nhiều loài tuyệt vời ở CCZ,” Rabone nói, “và với khả năng khai thác sắp xuất hiện, điều quan trọng gấp đôi là chúng ta phải biết nhiều hơn về những môi trường sống thực sự chưa được nghiên cứu đầy đủ này.”
Loài được hiển thị trong hình minh họa hàng đầu
Hàng 1: (A) hải sâm, Psychropotes dyscrita thường được gọi là “sóc keo”; (B) san hô nguyên thủy Abyssoprimnoa gemina; (C) san hô đối kháng, Abyssopathes dị thường; (D) bọt biển hexactinellid, Sympagella clippertonae. Hàng 2: (E) bryozoan cyclostomatid, chuỗi xoắn Pandanipora; (F) isopod, Macrostylis metallicola; (G) polychaete, Neanthes goodayi; (H) nhuyễn thể, Ledella knudseni. Hàng 3: (I) tuyến trùng, Odetenema gesarae; (J) kinorhynch, khoai môn Meristoderes; (K) loriciferan, Fafnirloricus polymetallicus; (L) giáp xác, Siphonis aurreus.